Đ
Lấy mộc mệnh luận ấn, được biết Giáp gặp Quý là chính ấn, gặp Nhâm là thiên ấn và Ất gặp Quý là thiên ấn gắp Nhâm là chính ấn.
Chính ấn là sinh mẫu, thiên ấn là kế mẫu.
Vấn đề chỗ này, ví dụ bạn là Giáp nam, Quý sinh Giáp con trai là sinh mẫu, vậy Quý sinh Ất con gái lại là kế mẫu? nó lại không phù hợp với logic xã hội, không phù hợp với lẽ thường.
Dù Quý sinh con trai (Giáp) hay con gái (Ất) đều cũng là sinh mẫu chứ?
Chỗ mâu thuẫn hay gặp phải xưa nay ở bát tự truyền thống là buộc phải lấy nhật chủ làm trung tâm, chứ không phải can chi khác đó là sai lầm.
Mẫu sinh ra ta thì mẫu mói là chủ thể chính ở đây, nên thứ ta tìm kiếm phải là "mẫu thể", so sánh Nhâm và Quý thì cây (Mộc) cần hấp thụ Quý thủy (sương, mưa) để được sinh trưởng hơn là Nhâm thủy (nước lớn, sông, biển) vì thủy nhiều thì mộc phiêu.
Nên thông thường tôi sẽ chọn Quý thủy là "mẫu thể" để sinh ra Mộc.
Nếu không có "mẫu thể" ta có thể tìm "phụ tinh" sau đó mới tìm mẹ, ở trong quá trình đó cũng có cơ hội hiện ra chính mẫu và kế mẫu, thậm chí còn tìm ra phường 3,4 cùng các anh chị em khác...
Ví dụ:
Ấn đại diện nhiều như vậy làm sao phân biệt được cái nào là sự kiện xảy ra?
Tính chất khác nhau của can chi sẽ cho ra đáp án khác nhau.
Riêng về thiên can, Quý đối với Giáp Ất là tri thức tiếp thu trực tiếp vì thủy đại biểu là tri thức, giọt nước được cây hấp thụ từ từ mà sinh trưởng.
Nhâm đối với Giáp lúc nhỏ là trường học, như sau cơn mưa to hình thành các vũng nước, (nếu mưa lụt nhiều ngày thì luận khác) tạo thành môi trường xung quanh.
Nhâm đối với Ất là như bèo ở trên sông bị trôi dạt bất định, không có trợ giúp gì nhiều.
Thìn đối với Mộc là nơi làm việc (quý ấn) kiếm ra tiền (mậu tài) cùng với đồng nghiệp (ất tỷ), cũng có thể liên quan tới công việc gia tộc vì thìn là mộc hương (tam mệnh thông hội).
Cho nên ấn đối với nhật chủ không chỉ đơn giản là chia làm chính ấn và thiên ấn (âm dương) mà còn phải chú ý đến tính chất của từng can chi.
Nhận xét
Đăng nhận xét